Thế nào là ” Cơ sở khoa học ” ?

THẾ NÀO LÀ “CƠ SỞ KHOA HỌC”?

Hai chữ “khoa học” đang trở thành một loại ngôn ngữ thời thượng của một số người muốn tăng trọng lượng cho phát biểu của mình. Các quan chức, không chỉ riêng ngành y tế, sử dụng hai chữ đó như là một dấu ấn cho độ tin cậy của những nhận xét. Nhưng tôi e rằng hai chữ “khoa học” đã bị hiểu nhầm, rồi từ hiểu nhầm dẫn đến lạm dụng, và lạm dụng khoa học dẫn đến việc gây khó khăn cho nhiều người và bất bình đẳng trong xã hội.

Khi được hỏi trên cơ sở nào mà Bộ Y tế ra quy định người lái xe gắn máy trên 50cc phải có chiều cao trên 145cm và cân nặng trên 40kg, các quan chức y tế cho biết họ dựa trên “cơ sở khoa học”. Họ giải thích thêm rằng đó là những số liệu về chiều cao và trọng lượng trung bình tính từ một cuộc điều tra nhân trắc học ở nước ta vào thập niên 1990. Phát biểu của một quan chức y tế cho biết: “Người Việt Nam 20-24 tuổi, nam có chiều cao 163,72 + (-) 4,32cm, cân nặng là 52,11+(-)4,70 và nữ có chiều cao lá 153,00 +(-)4,42cm, cân nặng là 44,60 + (-) 4,22. […]. Như vậy việc quy định người có chiều cao dưới 145cm hoặc cân nặng dưới 40kg thì không được lái xe A1 là có cơ sở khoa học và cũng phù hợp với hầu hết người dân Việt Nam”. Ngoài ra, Bộ Y tế còn cho biết họ đã tham khảo ý kiến của các chuyên gia về nhân trắc học, xã hội học, chuyên gia pháp luật, các giáo sư và những vị có uy tín trong ngành ý tế.

Thật khó hiểu được cái logic biện chứng cho tiêu chuẩn thể trạng về an toàn giao thông bằng một liên kết giữa những con số trung bình và quy định về một ngưỡng chiều cao hay cân nặng. Thật ra một liên kết như vậy càng không thể xem đó là giải thích “khoa học”. Thế mà câu hỏi đặt ra là: CƠ SỞ KHOA HỌC LÀ GÌ?

Theo cách hiểu được cộng đồng khoa học nhất trí, một quy định hay phát biểu được xem là KHOA HỌC nếu hội đủ ít nhất 3 điều kiện: (i) dữ liệu thật, (ii) công bố trước công chúng và (iii) tính tái xác định. Một quy định hay phát biểu không hội đủ ba điều iện này không thể xem là mang tính khoa học được.

Khoa học dựa vào sự thật hay dữ liệu thật. Những sự thật phải được quan sát hay thu thập và đo lường bằng những phương pháp chuẩn. Điều quan trọng và cần thiết trong khoa học là không chỉ sự thật mà dữ liệu có liên quan đến vấn đề đang được điều tra. Ở đây vấn đề đang được quan tâm là và an toàn giao thông và yếu tố gây nên tai nạn giao thông, chứ không phải những con số thống kê mang tính mô tả về chiều cao, cân nặng hay vòng ngực. Do đó, việc đưa ra những con số trung bình từ một cuộc điều tra cộng đồng (chưa hẳn là một nghiên cứu khoa học) chẳng liên quan gì đến an toàn giao thông không thể xem là bằng chứng khoa học được.

Khoa học không dựa vào kinh nghiệm cá nhân (dù cá nhân đó là chuyên gia) hay suy luận theo cảm tính. Theo y học thực chứng, ý kiến cá nhân của các giáo sư và chuyên gia có giá trị khoa học thấp nhất. Điều này đúng vì lịch sử y tế và y học cho thấy suy luận theo cảm tính đã gây ra nhiều tác hại cho bệnh nhân. Do đó dựa vào kiến thức của chuyên gia thì không thể nói đó là bằng chứng khoa học được.

Bằng chứng khoa học là những kết quả và dữ liệu nghiên cứu đã được công bố trên các tập san khoa học chuyên ngành, các tập san này có hệ thống bình duyệt (phản biện) từ các chuyên gia. Tác giả đã xem qua thư viện y sinh học quốc tế và chưa thấy một bất cứ nghiên cứu nào từ Việt Nam về mối liên hệ giữa chiều cao, cân nặng hay vòng ngực và tai nạn giao thông. Các nghiên cứu từ nước ngoài cho thấy chẳng có mối tương quan nào giữa chiều cao hay trọng lượng và tai nạn giao thông, nhất là ở nữ. Do đó chưa thể nói rằng quy định của Bộ Y tế về thể trạng để cấp bằng lái xe gắn máy là dựa vào bằng chứng khoa học được.

Để mang tính chất khoa học, tất cả các nghiên cứu đều phải có khả năng TÁI XÁC NHẬN. Liên quan đến đặc điểm này, có thể nói mối liên hệ giữa chiều dài của chân và chiều cao mang tính khoa học, bởi vì nghiên cứu từ Việt Nam, Đài Loan (Trung Quốc), Trung Quốc đại lục và Nhật Bản đều cho ra một kết quả nhất quán: chiều dài của chân bằng 46% chiều cao khi đứng. Kết quả của một nhiên cứu đơn thuần chưa thể xem là mang tính khoa học nếu kết quả này chưa được lặp lại nhiều lần trong nhiều quần thể khác nhau. Do đó, giả định của Bộ Y tế cho rằng chiều dài của chân bằng 51,7% chiều cao (để quy định chiều cao tối thiểu 145cm) là không có cơ sở khoa học. Cho đến nay chúng ta chưa thấy bất kỳ mối liên hệ nào giữa thể trạng và tai nạn giao thông tại Việt Nam, vì vậy chúng ta có quyền nghi ngờ “cơ sở hoa học” của Bộ Y tế.

Y tế và y khoa ngày nay dựa vào bằng chứng khoa học (còn gọi là y học thực chứng – evidence – based medicine). bằng chứng khoa học có thể không hoàn hảo, nhưng dụa vào bằng chứng khoa học chúng ta ít sai hơn là dựa vào kinh nghiệm và niềm tin duy ý chí. Do đó, ở các nước tiên tiến ngày nay, mọi chính sách y yế công cộng đều dựa vào bằng chứng từ nghiên cứu khoa học và kiến thức thực địa chứ không phải dựa vào ý kiến cá nhân của chuyên gia hoặc một chỉ đạo duy ý chí nào.

Chính vì dựa vào bằng chứng khoa học về mối liên hệ giữa việc thắt dây an toàn và tai nạn giao thông mà ở các nước phương Tây, nhà nước có quy định bắt buộc người lái xe hành khách xe ô tô phải thắt dây an toàn, hay người đi xe gắn máy và xe đạp phải đội nón bảo hiểm. Nhưng vì chưa đủ bằng chứng khoa học về thể trạng và an toàn giao thông nên chưa có nước nào dựa vào chiều cao, cân nặng hay vòng ngực để hạn chế cấp bằng lái xe gắn máy. Thật vậy, ở các nước phương Tây, người khuyết tật, người mắc bệnh mãn tính như tiểu đường, thấp khớp, cao huyết áp, v.v… cũng được quyền lái xe.

Những lý giải trên đây cho thấy rõ ràng rằng quy định của Bộ Y tế chẳng những không có cơ sở khoa học mà còn không phù hợp với trào lưu quốc tế, vô hình trung gây khó khăn cho hàng triệu người, nhất là phụ nữ và gây ra bất bình đẳng xã hội một cách nghiêm trọng.

 

(Theo GS. Nguyễn Văn Tuấn.)

Gọi ngay